Phật giáo Đại Thừa và Tiểu Thứa hiểu như thế nào

Thế nào là Tiểu thừa, thế nào là Đại thừa trong Phật giáo. Hai phái khác nhau ở những điểm nào?

bat dong
Bát đồng

–  Phật giáo Tiểu thừa có nguồn gốc từ phái Thượng tọa bộ (Đại hội II), còn Phật giáo Đại thừa có nguồn gốc từ phái Đại chúng bộ (Đại hội II). Phật giáo Tiểu thừa (Thượng tọa bộ, Stheviras) chủ trương bảo thủ Kinh-luật-luận như khi mới ra đời cho nên còn gọi là Phật giáo nguyên thủy. Còn Phật giáo (Đại chúng bộ, Mahasamghikas) chủ trương cải cách, vận dụng Kinh-luật-luận để việc hành đạo phù hợp với căn cơ (điều kiện, trình độ) của chúng sinh. Đại hội IV khi kết tập kinh điển đã chia làm hai phái nhưng lúc đầu chưa gọi là Tiểu thừa và Đại thừa. Sau này khi Đại chúng bộ phát triển hưng thịnh mới dùng Đại thừa để phân biệt với Tiểu thừa. Phái Đại thừa (Mahayana) còn có tên gọi là Phật giáo Bắc tông vì chủ yếu truyền bá ở phía Bắc, còn phái Phật giáo Tiểu thừa (Nihayana) có tên là Phật giáo Nam tông vì chủ yếu truyền bá xuống các nước phía Nam. Phật giáo Tiểu thừa tự nhận là Phật giáo nguyên thủy (Therevada).

–  Những khác biệt của hai phái:

Những dị biệt của hai phái? Hòa thượng: Xin nói vắt tắt như sau: – Khác nhau ở thuyết “hữu” và “vô” (có và không). Tiểu thừa chủ trương “hữu luận” hay chấp hữu, cho rằng vạn pháp vô thường (luôn chuyển động, biến đổi) nhưng vẫn có “hữu” một cách tương đối, chứ không thể nói là không, “vô” được, còn Đại thừa chủ trương “không luận” hay chấp không, cho rằng vạn pháp tuy có “hữu” nhưng thực ra không “vô” vì vạn pháp xuất hiện

la de bang dong
Phù điêu lá đề bằng đồng chạm hình Phật Hoàng Trần Nhân Tông

–  Thiền phái Trúc Lâm (竹林安子) là một dòng thiền Việt Nam đời nhà Trần, do Trần Nhân Tông quê ở Thiên Trường (Nam Định) sáng lập. Trúc Lâm vốn là hiệu của Trần Nhân Tông, đồng thời cũng là hiệu của Thiền sư Đạo Viên, tiền bối của Trần Nhân Tông, Tổ thứ hai của dòng thiền này. Thiền phái Trúc Lâm có ba Thiền sư kiệt xuất là Nhân Tông (Trúc Lâm Đầu Đà), Pháp Loa và Huyền Quang (gọi chung là Trúc Lâm Tam tổ). Thiền phái này được xem là tiếp nối nhưng là sự hợp nhất của ba dòng thiền Việt Nam của thế kỉ thứ 12 – đó là dòng Thảo Đường, Vô Ngôn Thông và Tì-ni-đa-lưu-chi. Với việc lập ra phái Trúc Lâm, Trần Nhân Tông đã thống nhất các Thiền phái tồn tại trước đó và toàn bộ giáo hội Phật giáo đời Trần về một mối.

Sau khi nhường ngôi cho con trai là Trần Anh Tông vào năm 1293, Vua Trần Nhân Tông xuất gia tu hành tại chùa Khai Phúc thuộc hành cung Vũ Lâm (Ninh Bình), đến năm 1299 vua rời đến Yên Tử (Quảng Ninh) tiếp tục tu hành và thành lập Thiền phái Trúc Lâm (còn gọi là Trúc Lâm Yên Tử hay Trúc Lâm Tam tổ).

Thiền phái Trúc Lâm do một vị vua nhà Trần sáng lập, được xem là dạng Phật giáo chính thức của Đại Việt thời đó nên có liên quan mật thiết đến triều đại nhà Trần, phải chịu một hoàn cảnh mai một sau khi triều đại này suy tàn. Vì vậy, sau ba vị Tổ nói trên, hệ thống truyền thừa của phái này không còn rõ ràng, nhưng có lẽ không bị gián đoạn bởi vì đến thời kì Trịnh-Nguyễn phân tranh (1600-1700), người ta lại thấy xuất hiện những vị Thiền sư của Trúc Lâm Yên Tử như Viên Cảnh Lục Hồ, Viên Khoan Đại Thâm và nổi bật nhất là Thiền sư Minh Châu Hương Hải (theo Nguyễn Hiền Đức).

Sau một thời gian ẩn dật, dòng thiền này sản sinh ra một vị Thiền sư xuất sắc là Hương Hải, người đã phục hưng tông phong Trúc Lâm. Trong thế kỉ thứ 17-18, thiền phái này được hoà nhập vào Lâm Tế tông và vị Thiền sư xuất sắc cuối cùng là Chân Nguyên Huệ Đăng.

Facebook Comments